Thành Nhà Hồ Thanh Hóa ( Di sản văn hóa thế giới)
|Xin giới thiệu với quý khách Thành Nhà Hồ Thanh Hóa đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào ngày 27/6/2011. Tin vui đó càng khẳng định giá trị đích thực của Thành Nhà Hồ trong danh mục các di sản văn hóa của nhân loại và càng nâng cao trọng trách tiếp tục nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản không chỉ của Thanh Hóa mà của cả nước trong trách nhiệm trước thế giới theo Công ước Di sản Thế giới của UNESCO. Thành nhà Hồ hiện nay nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Đây là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, thành này còn được gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Xây xong thành, Hồ Quý Ly đã dời đô từ Thăng Long về Tây Đô.
Thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng giêng năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400) vương triều Hồ thành lập (1400-1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành Nhà Hồ. Hồ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Trong cải cách ông biểu thị tinh thần dân tộc cao, ý tưởng canh tân mạnh mẽ, phê phán cả Khổng Tử và Tân Nho giáo, nêu cao tính thực tiễn và hiệu quả. Thành Nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. La thành là vòng ngoài cùng, chu vi khoảng 4 km. Hào thành được đào bao quanh bốn phía ngoài nội thành, cách chân thành theo các hướng khoảng 50 m. Công trình này có nhiệm vụ bảo vệ nội thành.
Hoàng thành được xây dựng trên bình đồ có hình gần vuông. Chiều Bắc – Nam dài 870,5 m, chiều Đông – Tây dài 883,5 m. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam – Bắc – Tây – Đông gọi là các cổng Tiền – Hậu – Tả – Hữu. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các cổng này được xây dựng theo kiến trúc hình mái vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau.
Cổng tiền (cổng phía Nam) là cổng chính, có ba cửa. Cửa giữa rộng 5,82 m, cao 5,75 m, hai cửa bên rộng 5,45 m, cao 5,35 m. Ba cổng còn lại chỉ có một cửa. Tường thành cao trung bình 5-6 m, chỗ cao nhất là cổng tiền cao 10 m.
Nối liền với cửa Nam là con đường Hoa Nhai (đường Hoàng Gia) lát đá dài khoảng 2,5 km hướng về đàn tế Nam Giao (nơi nhà vua tế lễ) được xây dựng vào tháng 8/1402.
Thành Nhà Hồ Thanh hóa là một kiến trúc kinh thành quy mô lớn, đặc biệt Hoàng thành và đàn Nam Giao. Giá trị độc đáo bậc nhất của Thành Nhà Hồ là tòa kinh thành xây bằng đá rất bền vững và kiến cố. Biết bao vấn đề đặt ra cần lời giải đáp như nguồn đá, cách thức đẽo gọt theo kích thước được tính toán phù hợp với cấu trúc và thiết kế tòa thành, phương tiện vận chuyển, phương pháp lắp ghép và xây dựng… Tất cả nói lên một kỳ tích của con người, tài năng tổ chức, điều hành của công trình sư và lao động sáng tạo của các lớp dân phu, thợ thủ công các nghề làm đá, nung gạch ngói, xây dựng và trang trí… Trên lãnh thổ Việt Nam và phương Đông có nhiều kiến trúc bằng đá, nhất là các pháo đài, đến miếu, tượng đài, lăng mộ…, nhưng Thành Nhà Hồ là kinh đô duy nhất xây dựng chủ yếu bằng đá lớn rất hiếm trên thế giới.
Khu vực Thành Nhà Hồ Thanh Hóa nằm giữa một không gian rộng lớn, xóm làng thưa thớt và chưa bị sức ép nhiều của dân số và đô thị hóa. Nhờ đó, điều may mắn là tuy các kiến trúc cung điện, tường gạch bên trên thành cùng các bộ phận bằng gạch, gỗ bị sụp đổ, hủy hoại và tòa thành cũng không tránh khỏi có phần bị sạt lở, nhưng gần như tổng thể kiến trúc bằng đá vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Những di tích còn được bảo tồn trên mặt đất đã rất quý, nhưng trong lòng đất Thành Nhà Hồ chắc chắn còn chứa đựng một kho tàng di tích, di vật vô cùng quý giá.
Từ năm 2004 đến nay, khảo cổ học đã tiến hành một số đợt điều tra thám sát, thăm dò và khai quật làm xuất lộ các dấu tích cung điện, miếu đàn cùng hàng ngàn di vật phản ánh rõ hơn quá trình xây dựng và kiến trúc của kinh đô nước Đại Việt những năm cuối thời Trần và của nước Đại Ngu thời nhà Hồ. Nhờ những phát hiện khảo cổ học này, giá trị của khu di tích càng được chứng thực và cung cấp nhiều cứ liệu khoa học để làm sáng tỏ dần những điều bí ẩn về quy hoạch, cấu trúc đô thành và phương thức, kỹ thuật kiến trúc. Gần đây khảo cổ học đã phát hiện ra di tích công trường khai thác đá với những khối đá qua các công đoạn ghè đẽo tại núi An Tôn và vài núi gần thành.